Chơi và trò chơi có định nghĩa khác nhau trong liệu pháp vui chơi (Schaefer và Reid, 1986). Việc chơi thường là một thứ nhất thời, không có mục tiêu cụ thể, và được thúc đẩy bởi mong muốn được cảm thấy vui vẻ (Csikszentmihalzi, 1976; Erickson, 1950; Garvey, 1977). Việc chơi có những yếu tố phi cấu trúc, trong khi đó thì các trò chơi sẽ được tổ chức theo hình thức và các điều luật cầu kỳ hơn so với việc chơi. Tuy các trò chơi cũng có thể là một thứ rất vui, chúng thường theo hình thức đối kháng giữa các người chơi. Avedon và Sutton-Smith (1971) gọi đây là “một cách thực hành trong một hệ thống kiểm soát tự nguyện, mà có một sự tranh giành quyền lực, trong khuôn khổ của các luật chơi, nhằm tạo ra một kết quả không công bằng (một người duy nhất thắng).” Những cuộc đấu như thế thường khiến các bên tham gia tập trung và tận hưởng trò chơi hơn (Holmes, 1964; Rapoport, 1966; Steele & Tedeschi, 1967).
Tôi dùng các trò chơi trong việc trị liệu tâm lý để hình thành một mối quan hệ tốt với các thân chủ và để cả hai được giải trí. Tôi thấy rằng tôi có thể làm công việc trị liệu của tôi cùng lúc chơi các trò mà tôi chọn cho các mục đích cụ thể. Việc chơi các trò chơi là một hoạt động mà phần lớn trẻ em và thanh thiếu niên biết đến, và nó giúp họ thư giãn trong các buổi trị liệu và “mở lòng” theo một cách ít phải kiềm chế hơn. Đôi lúc thì những trò chơi mà tôi sử dụng là một thứ gì đó lạ lùng với những đứa trẻ dành phần lớn thời gian chơi máy tính, điện thoại, hoặc là các thiết bị chơi game khác. Trải nghiệm xúc giác của một trò chơi ngoài máy tính thường đem lại một trải nghiệm mới mà trẻ con thường sẽ thích. Qua việc sử dụng các trò chơi, trẻ cũng có thể rèn luyện kĩ năng xã hội của chúng. Các kỹ năng xã hội quan trọng khác, kể cả khả năng tráo và chia bài, bàn về việc không gian lận, chờ lượt, kết thúc trò chơi, và dọn dẹp đồ sau khi chơi xong cũng có thể giúp trẻ con hòa nhập với những đứa trẻ khác. Những trẻ và thanh thiếu niên có khó khăn trong việc hiểu các tín hiệu xã hội và các ngôn ngữ thực dụng sẽ thường nhận thông tin theo nghĩa đen và hiểu ít về khái niệm “khẩu chiến”. Tuy vậy, gần như tất cả đối tượng sẽ thấy thích những khái niệm này khi họ hiểu chúng. Ngoài những lợi ích này, một số chơi còn giúp dạy những kĩ năng như là kỹ năng kiềm chế, biểu cảm, giao tiếp, rà soát và phân tích, sử dụng các chiến lược và điều luật, không chùn bước, và lên kế hoạch. Tập trung của tôi tại đây là để chia sẻ một số trò chơi mà tôi dùng trị liệu, để hỗ trợ các thân chủ có những chẩn đoán và nhu cầu cụ thể.
Tôi thường ít dùng những trò chơi “trị liệu” như trò “Nhìn, Cảm Nhận, và Làm” (Gardner, 1973). Một số trẻ em, đặc biệt là những trẻ còn rất bé, sẽ thích các trò chơi loại này; nhưng phần lớn trẻ em mà tôi biết sẽ thường muốn chơi một tựa game “thực thụ.” Vì lý do chính trong việc sử dụng các trò chơi trong việc trị liệu là để tạo ra một không gian mà mối quan hệ giữa hai bên có thể phát triển, việc những trò chơi được chọn có mang tính thú vị và được chấp thuận bởi thân chủ là điều tất yếu.
Một Số Trò Chơi Được Chuyên Gia Nước Ngoài Ứng Dụng Trong Trị Liệu Tâm Lý
Trò “Chuyền Lợn.”

Ảnh minh hoạ
Một trong những bạn tuổi teen “khó xử” mà tôi đã từng gặp, Tim, sống trong một ngôi nhà tập thể. Cậu nhìn chung là cũng khá lịch sự nhưng không thật sự tham gia quá trình trị liệu cho lắm, mà chỉ đưa ra những câu trả lời nhạt nhoà và vẫn còn lưỡng lự về việc mở lòng. Tôi tình cờ tìm thấy trò “Chuyền Lợn” (Moffat, 1977) và tôi đã chơi trò này cùng với cậu ta. Quy định của trò chơi là từng người chơi sẽ lăn 2 con lợn cao su, và được điểm tùy theo tư thế của chúng. Hết lượt khi hai con lợn dừng ở tư thế “làm lợn”, và khi cả hai con lợn nằm vào 2 má khác nhau thì người chơi sẽ mất hết điểm trong lượt. Tư thế “làm lợn” thường xảy ra khá là thường xuyên. Các người chơi có lựa chọn kết thúc lượt bất kì khi nào họ muốn để giữ điểm của họ để lên đến điểm 100, hoặc là họ có thể lăn tiếp cho đến lúc nào họ bị mất hết điểm trong lượt và phải chuyển lượt. Người chơi có thể thắng trò này trong đúng một lượt, và Tim gần như lúc nào cũng đánh cược vào khả năng đó. Kể cả khi tôi đã thắng ấy nhiều hơn nhờ nó, Tim vẫn tiếp tục ván cược của mình.
Tôi nói với giám sát viên của mình rằng có vẻ như tất cả những gì Tim muốn là chơi trò này và họ bảo rằng tôi phải kiên nhẫn. Và rồi một ngày Tim đến buổi trị liệu với tâm trạng buồn bực và nói rằng cậu ta không muốn chơi. Cậu ta khóc và nói rằng cậu đã khiến ông mình thất vọng bằng việc phá luật chơi. Và đó là lần đầu tiên mà chúng tôi đã có thể khám phá trải nghiệm và những cảm xúc của cậu và bàn về những kế hoạch cho cậu.
Tôi nhận ra rằng nếu tôi không chơi những trò này cùng với cậu, Tim sẽ không thấy đủ thoải mái để mở lòng với tôi. Chúng tôi đã thiết lập một môi trường an toàn/mối quan hệ qua việc chơi cùng nhau. Chúng tôi đã tiếp tục chơi vào những tuần tới, và chúng tôi càng ngày càng trao đổi nhiều hơn trong lúc chơi. Một ngày, tôi hỏi Tim liệu cậu có theo một quy luật gì trong lúc chơi không. Cậu ta nói rằng cậu không theo quy luật nào cả, và hỏi ngược lại tôi rằng tôi có theo quy luật nào không.
Tôi nói rằng tôi thường sẽ cố đạt được 20 điểm, rồi tôi mới kết thúc lượt. Tim sau đó bắt đầu lăn 5 lần trong mỗi lượt, và kết quả của cậu đã tiến bộ. Chúng tôi sau đó có bàn một chút về các quy luật, và tôi tin là cậu đã bắt đầu thay đổi cách nhìn về luật, như là một cách để thắng thay vì là một rào cản mà cần phải bị phá vỡ. Một vài tháng sau, Tim đã được rời căn nhà tập thể và quay về sống tiếp cùng với ông. Sau buổi trị liệu cuối cùng được vài tháng thì cậu đã liên lạc tôi để cho tôi biết cậu đang sống tốt như thế nào. Việc chơi “Chuyền Lợn” với Tim đã giúp chúng tôi hình thành một mối quan hệ và giải quyết hành vi phá luật của cậu. Thay vì nghĩ việc chơi là một yếu tố bổ sung cho quá trình trị liệu hay là một phương thức để hình thành quan hệ, tôi nhận ra là chơi một trò chơi phù hợp lại chính là trị liệu tâm lý.
Tham Khảo: Vui chơi là cách thức đẩy lùi bệnh tự kỷ ở trẻ
“Set.”

Ảnh minh hoạ
Tôi bắt đầu nghĩ về cách dùng những trò chơi mà trẻ vừa cảm thấy vui vừa giúp các bạn hình thành mục tiêu. Khi tôi tìm thấy trò “Set” (Falco, 1988), tôi ngay lập tức nghĩ rằng những lá bài này giống với những thứ trong bài kiểm tra Soát Bài Wisconsin và tự hỏi rằng liệu trò chơi này cũng có thể cho thấy rối loạn chức năng điều hành và linh hoạt tâm lý.
Đây là một trò chơi bài và từng lá có 1, 2, hoặc 3 hình giống nhau ở trên nó. Có 3 loại hình khác nhau, có 3 màu khác nhau, và 3 kiểu tô màu. Tôi sẽ trình bày luật chơi cho đối tượng theo một cách mà giúp họ kích hoạt và sử dụng bộ nhớ làm việc của họ. Trước khi tôi cho họ xem các lá bài, tôi sẽ yêu cầu họ lặp lại câu “màu, số, hình, kiểu tô màu” và nhớ câu đó. Và rồi tôi cho họ xem các lá chia theo từng màu, từng số, từng hình, và cách tô màu, theo đúng thứ tự đó. Tôi nói với họ là một cặp sẽ có 3 thứ mà giống y chang hoàn toàn so với nhau, hoặc là 3 thứ không hề giống nhau tí nào. Sau đó chúng tôi sẽ nhìn một số cặp làm ví dụ. Các lá bài sẽ được tráo lên và 12 lá sẽ được lật lên. Người đầu tiên thấy một cặp sẽ phải hô “cặp,” nhặt cả cặp lên và giải thích vì sao những lá bài đó tạo nên một cặp, giải thích về màu, số, hình, kiểu tô màu, theo đúng trình tự đó. Các người chơi sẽ phải chú ý, quan sát môi trường xung quanh, áp dụng quy luật, và định nghĩa cho một cặp. Nếu hô “cặp” mà bị sai thì người đó sẽ mất 3 lá bài. Người giữ nhiều bài nhất là người thắng cuộc. Trò này yêu cầu sử dụng nhận thức trực quan, quan sát, trí nhớ, tốc độ phân tích, tính bộc phát, và những kỹ năng khác liên quan đến chuyện thắng thua - và nó cũng rất vui!
Tôi sử dụng trò này với những đối tượng mắc rối loạn tăng động / giảm chú ý (ADHD), hoặc có các dấu hiệu của rối loạn phổ tự kỷ, và với những đối tượng cao tuổi mà lo rằng khả năng nhận thức của họ đang bị yếu đi. Tôi đã chơi trò này với những đứa trẻ, bé nhất là tầm 4 tuổi. Chúng tôi có bàn về các chiến lược để tìm một cặp, và tôi sẽ thường đưa ra những miêu tả gợi ý về một cặp trên bàn.
Dorothy là một cô bé 6 tuổi lớp 1 khi phụ huynh của cô đưa cô đi trị liệu để xử lý những triệu chứng ADHD vì chúng đang bắt đầu gây ra những khó khăn cho cô bé ở trường. Kết quả cho thấy rằng cô bé là một người sáng dạ, nhưng khả năng ghi nhớ và tốc độ phân tích của cô bé thấp đáng kể so với những khía cạnh khác, một điểm thường gặp đối với người mắc ADHD. Cô đã nhận được sự hỗ trợ đặc biệt tại trường để giúp ứng phó với khả năng ghi nhớ và tốc độ phân tích chậm của mình. Một trong những trò chơi chúng tôi thường chơi trong các buổi trị liệu là trò “Set.” Dorothy cực kì thích trò này; khi cô bé đã giỏi trò này, cô không còn muốn tôi đưa ra gợi ý về các cặp trên bàn nữa. Điểm của cô đã cải thiện, và điểm tốc độ phân tích của cô đã lên hơn hẳn 1 điểm lệch chuẩn. Rõ ràng, đây chỉ là một bằng chứng sống, mặc dù không thể củng cố cho nghiên cứu nhưng với tôi nó là một điều đáng khích lệ. Hiện giờ, Dorothy là một học sinh giỏi đang học trung học cơ sở và cô bé luôn nộp bài đúng hạn. Có vẻ như việc sử dụng những kỹ năng được cải thiện đã giúp cô thành thục chúng và áp dụng chúng ngoài môi trường trị liệu.
Tham Khảo: Kỷ luật tích cực và hướng dẫn trẻ em
“Câu Cửa Miệng.”

Ảnh minh hoạ
“Câu Cửa Miệng” (1994) là một trò chơi được biết đến một cách phổ biến bởi các thân chủ của tôi, và tôi thường chơi nó với các đối tượng và các gia đình. Trò này giống trò “Mật Mã”, một trò chơi truyền hình mà các người chơi sẽ đưa ra các gợi ý để đồng đội đoán từ trên bảng. Ngoài việc giúp hình thành và củng cố mối quan hệ giữa tôi và thân chủ, Câu Cửa Miệng cũng có thể hỗ trợ cho những đứa trẻ không giỏi thể hiện bản thân, như là những người có các chẩn đoán thuộc rối loạn phổ tự kỷ. Khi những đứa trẻ này đã làm quen với việc giao tiếp để chơi trò này, chúng có vẻ nói chuyện thoải mái hơn trong các buổi trị liệu.
Nó cũng là một cách để đề cập các chủ đề một cách trực diện hơn, vì chúng ta luôn nói về nghĩa thật của câu thay vì là nghĩa bóng của nó. Các người chơi thường xuyên đoán các âm tiết của các từ hoặc các câu nếu họ không rõ về cả từ hay cả câu; điều này kích thích sự linh hoạt của suy nghĩ. Tôi thường xuyên tắt đồng hồ đếm ngược, vì khi đồng hồ chạy càng gần con số 0, bên đưa ra gợi ý lại càng thấy lo hơn. Tôi cũng không thường xuyên ghi điểm, trừ khi đang chơi cùng với một nhóm lớn như là một gia đình; lý do là vì quá trình đoán và đưa ra gợi ý là đã rất vui rồi. Trò này cho phép các nhà tâm lý học quan sát các động lực trong gia đình và giúp các gia đình đang đối mặt với sự bất ổn có cơ hội để tận hưởng niềm vui cùng nhau.
“Uno.”
“Uno” (Robbins, 1971) là một trò chơi bài được ưa chuộng và được coi là đơn giản hơn so với bài tú lơ khơ. Thay vì là có 4 chất như tú lơ khơ, thì Uno có 4 màu; cuộc chơi sẽ tiến hành bằng việc bỏ từng lá xuống và bốc thêm nếu bạn không thể bỏ một lá trùng màu hay số với lá trên cùng của mớ bài bỏ. Mục tiêu của trò chơi này là phải bỏ được hết bài trên tay của mình. Các trẻ có thể học cách chơi trò này, đôi lúc là qua việc bắt đầu với tư cách là đồng đội của phụ huynh chơi cùng. Các đối tượng sẽ được học cách tráo và chia bài, cách để sắp xếp bài trên tay, cách chờ để chơi theo lượt, và cách để ứng phó với việc bị mất lượt hay việc phải bốc thêm bài. Sau khi chia bài, tôi sẽ bảo các người chơi là hãy sắp xếp bài theo màu và rồi tôi cho họ xem cách tôi sắp xếp bài trên tay của tôi. Và trong lúc chơi, chúng tôi cũng bắt đầu trao đổi các câu khẩu chiến như là, “À cái thằng lỏi này, tí nữa tao cho mày biết thế nào là lễ độ.” Ngoài ra, chúng tôi cũng còn bàn thêm về việc tính điểm, những chiến lược căn bản, việc không nên để lộ bài trên tay, và không nhìn bài trên tay người khác.
Jonah là một đứa trẻ 4 tuổi rất thông minh như lại có khó khăn về mặt kỹ năng xã hội, điều khiển cảm xúc, và mắc ADHD. Cậu đã học được cách chơi Uno với sự trợ giúp của mẹ cậu. Cậu có thể sắp xếp bài trên tay và chờ đến lượt. Ban đầu thì cậu cũng hơi cay cú vào những lúc thua, không hiểu khái niệm khẩu chiến và bị kích thích cho đến lúc mà tôi giải thích cho cậu. Giờ cậu ta thấy rất thích khi bị gọi, và khi gọi tôi, là một thằng lỏi giữa các buổi chơi. Cậu ta giờ có thể tiếp tục chơi kể cả khi tình hình cho thấy cậu sẽ thua, và cậu hiểu rằng nếu cậu đang thua mà lại bỏ cuộc, thì những người khác sẽ không muốn chơi với cậu nữa.
Tham khảo: Xây dựng lòng tự trọng ở trẻ em
…
Tôi cũng dùng một số trò khác khi trị liệu tâm lý như là “Mancala” với các đối tượng mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và ADHD. Trò này giúp với việc lên kế hoạch và khiến người chơi chậm lại. “Cờ Vua” và “Connect Four” là những trò chơi tốt để khuyến khích việc rà soát trực diện và các kỹ năng đưa ra kế hoạch. “Giờ Cao Điểm” giúp các đối tượng cải thiện các kỹ năng đọc bản đồ, rà soát trực diện, đặt câu hỏi ra qua lời nói, và đưa ra kế hoạch. “Nhặt Gậy” giúp hạn chế tính bộc phát, khuyến khích việc chuẩn bị, và giúp cho việc tập trung và chậm lại của đối tượng. “Skip-Bo” (Bowman, 1967) khuyến khích các học sinh thấy được giá trị của chiến lược và kỉ luật. Điều quan trọng nhất là phải dùng đúng trò để các đối tượng có thể phát triển và cải thiện các kỹ năng cần thiết.
Nguồn: Using Popular Games Therapeutically - Society For The Advancement Of Psychology